Ở Việt Nam, việc thờ bánh chưng vào dịp Tết Nguyên đán phản ánh được nhiều bình diện cuộc sống, thể hiện được những quan niệm về vũ trụ - nhân sinh. Cùng tìm hiểu về tục gói bánh chưng vào dịp Tết dưới đây.
Bánh chưng tết Việt Nam |
Phong tục thờ bánh chưng vào dịp Tết là sự thể hiện nét văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, được nhân dân lưu truyền từ thời Hùng Vương (đời thứ Sáu) cho đến ngày nay, đồng thời giải thích ý nghĩa biểu trưng (khuôn hình) của bánh chưng, bánh giầy (bánh tét, bánh tày) (sẽ được bàn ở phần dưới). Hơn hết, phong tục này còn là sự khẳng định tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước.
Biểu trưng của vũ trụ - nhân sinh quan
Những ý nghĩa biểu trưng về vũ trụ - nhân sinh quan qua bánh chưng, bánh
giầy được thể hiện từ tên gọi, hình thể cho đến nguyên liệu làm nên nó.
Trước hết, tìm hiểu bánh chưng với tư cách như một thuật ngữ. Ngỡ tưởng
loại bánh này trong quá trình nấu chín, người ta phải luộc lên, nhưng
nếu là “luộc” thì có gì đáng bàn. Song gọi là bánh chưng có thể rơi vào
trường hợp: trong quá trình nấu bánh, người ta không cho nước tiếp xúc
với vật liệu được luộc (tức là bánh), thì ắt có lẽ là hình thức hấp hoặc
chưng (nấu cách thuỷ). Bởi vậy, giải thích cho tên gọi bánh chưng theo
cách này có vẻ rất hợp lí.
Bánh chưng là loại bánh vuông với hình khối, còn bánh giầy được xem
là loại bánh hình trụ tròn. Như vậy, chúng ta thấy rằng bánh chưng,
bánh giầy đã là sự biểu trưng về quan niệm vũ trụ. Bánh giầy, tròn và
dài biểu trưng cho trời, bánh chưng vuông biểu trưng cho đất, phù hợp
với triết lí Trời tròn - Đất vuông của biện chứng Đông Phương nói chung
và Việt Nam nói riêng.
Mặt khác, với quan niệm nhân sinh thì đây là một trong những tín ngưỡng
phồn thực của người Việt Nam, bánh giầy tượng trưng cho sinh thực khí
nam giới (Linga); bánh chưng, tựng trưng cho sinh thực khí nữ giới
(Yoni). Tín ngưỡng phồn thực này, mới nghe tưởng như dung tục, nhưng xét
cho cùng, nó rất phù hợp với quan niệm của người Việt thời tiền sử. Con
người thời đó quá “bé nhỏ”, yếu ớt trước thiên nhiên huyền bí.
Người ta thường áp hai bánh chưng, hoặc hai bánh giầy với nhau thành
từng đôi một, thể hiện mong ước, quan niệm nhân sinh của con người rằng
trong cuộc đời cần có đôi có cặp để sống với nhau đến đầu bạc răng long.
Như vậy, chỉ qua hình thức của bánh và cách bày trí nó thôi, cũng đủ
cho chúng ta thấy người Việt rất sâu sắc giàu quan niệm về vũ trụ, nhân
sinh.
Còn ruột và nhân bánh có hàm ý biểu trưng gì chăng? Nhân bánh được nếp
phủ xung quanh và phía ngoài lại được lá bao bọc, tượng trưng cho sự
biết ơn công lao cha mẹ sinh thành đã thương yêu con cái mà đùm bọc, chở
che, khác nào áo choàng lấy thân vậy!
Bánh chưng – niềm tự hào ẩm thực Việt
Bánh chưng – niềm tự hào ẩm thực Việt |
Trong những ngày Tết đến, xuân về, những hương vị và những vật phẩm đã
trở thành quen thuộc trong dịp tết như: thịt mỡ, dưa hành, bày trí trong
nhà một cành đào hay một cành mai, một bức câu đối được cắt làm đôi
treo cân xứng hai bên xà nhà. Trên bàn thờ tổ tiên bày trí đủ các loại:
mâm ngũ quả, kẹo bánh, mứt, rượu,... đặc biệt là bánh chưng. Tất cả đã
tạo nên một không khí, không gian rất “Tết”!
Bánh chưng sau khi đã thờ cúng tổ tiên xong, được dọn xuống để mọi người
cùng thưởng thức. Hẳn chúng ta sẽ không ngớt lời tấm tắc rằng bánh
chưng đúng là một trong những loại thức ăn vừa ngon, béo, thơm và trông
thật mĩ quan! Nó đã tôn lên niềm tự hào về văn hóa ẩm thực của người
Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Đó là loại thức ăn vừa độc đáo, vừa gần
gũi. Độc đáo ở chỗ: là loại bánh do chính người Việt Nam (Hoàng tử Lang
Liêu - đời Hùng Vương thứ 6) sáng tạo nên (theo cách giải thích huyền
sử về nguồn gốc bánh chưng). Từ xưa tới nay, bánh chưng, bánh giầy Việt
Nam không lẫn, không phỏng theo bất kỳ thứ bánh nào của các quốc gia
khác. Nó là loại thức ăn rất gần gũi với người Việt Nam, được làm nên từ
những nguyên liệu không đến nỗi hiếm hoi trong dân gian như: gạo nếp,
thịt heo, hành, tiêu, đậu xanh, lá dong rừng (hoặc lá chuối, lá tre...),
lạt giang...và có khi thêm những nguyên liệu phụ như: quả chùm phù (lúc
chín có màu đỏ), quả gấc... để tăng phẩm màu cho nhân bánh thêm đẹp.
Ngẫm ra, phong tục truyền thống thờ cúng và thưởng thức bánh chưng
ngày Tết của người Việt Nam thật lắm điều thú vị. Nó vừa mang nét văn
hóa tín ngưỡng tâm linh, vừa mang nét văn hóa ẩm thực. Cả hai cùng quyện
lẫn vào nhau trong một chỉnh thể cân xứng giữa một bên là vẻ hình thức
bề ngoài, một bên là những nguyên liệu bên trong của bánh chưng. Chỉnh
thể cân xứng, thống nhất đó được thể hiện bằng “quy trình”: gói, thờ
cúng và thưởng thức bánh chưng như sự mặc định sở hữu về một trong những
nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày cuối cùng của tháng Chạp hàng năm, mọi người từ miền
xuôi cho tới miền ngược, từ ven biển, đồng bằng cho tới vùng cao, từ
nông thôn cho tới thành thị, thậm chí cả những kiều bào Việt Nam ở nước
ngoài đều hòa chung bầu không khí an lành: đón Tết Nguyên đán. Mọi người
lại hồ hởi bắt tay vào công việc gói bánh bánh chưng thờ Tết. Nếu những
gia đình ở đô thị vì bận công việc, buôn bán, không có thì giờ để gói
bánh chưng thì họ lại đặt mua. Thế là “thịt mỡ”, “dưa hành”, “câu đối
đỏ”, mai (đào), kẹo, mứt, rượu cùng bánh chưng xanh lại được bày biện
lên bàn thờ của nhà nhà trên dải đất hình cong chữ S này trong một nét
văn hóa, một nét phong tục truyền thống đặc trưng rất Việt Nam: đón Tết
cổ truyền và thờ bánh chưng xanh.
Đăng nhận xét